Viêm tuyến cấp tính hay còn gọi là viêm tuyến giáp mủ là tổn thương viêm khu trú của tuyến giáp trạng do vi khuẩn gây ra. Viêm mủ gây phá hủy các tổ chức xơ, sợi, tổ chức liên kết, thoái hoá trong dẫn đến giảm nhu mô và chức năng của tuyến.

Viêm tuyến giáp nhiễm trùng do các mầm bệnh thông thường

Diễn biến một bệnh nhiễm trùng như viêm phổi, thương hàn, ho gà, sởi, vv. Hoặc từ một ổ mủ khu trú, mầm bệnh truyền qua đường máu tời tuyến giáp gây nên. Hoặc nhiễm trực tiếp từ kim tiêm, từ muỗi, dĩn đốt, hoặc đôi khi có một vết thương nhiễm trùng, ổ mủ lan tỏa đến tuyến giáp. Trong khi triệu chứng toàn thân biểu hiện sốt thì tuyến giáp sưng lên, vùng trước cổ đau, căng lên, đau lan đến hàm dưới, đến tai. Đôi khi có các dấu hiệu chèn ép khí quản, thực quản hoặc dây thần kinh quặt ngược. Khi sờ nắn bướu, bệnh nhân thấy đau dội lên các thùy của bướu. Tuyến căn mọng, hầu như bao giờ cũng dẫn đến hóa mủ. Khi sờ có thể phát hiện được những vùng lùng nhùng, da bên ngoài đỏ, phù nề, nóng và bắt đầu dính vào tuyến. Xét nghiệm thấy bạch cầu tăng, chủ yếu là bạch cầu đa nhân trung tính. Tốc độ máu lắng tăng. Thăm dò chức năng tuyến giáp nói chung thấy bình thường.

Chuẩn đoán căn cứ vào các triệu chứng của một bệnh nhiễm trùng cấp, phối hợp với các dấu hiệu apxe tại chỗ. Tuy nhiên trong một số trường hợp, có thể nhầm với viêm tuyến giáp bán cấp hoặc ung thư tuyến giáp. Khi viêm đã hóa mủ rồi thì sốt hạ xuống. Cần chích dẫn lưu mủ. Đôi khi apxe vỡ mủ chảy vào khí quản hoặc thực quản hoặc mủ chảy vào các khoang tế bào của cổ, vào trung thất hoặc màng phổi. Điều trị chủ yếu dựa vào khán sinh thích hợp. Nếu điều trị sớm có thể ngăn chặn không cho hóa mủ. Tiên tượng nói chung tốt, phần lớn các trường hợp sẽ hồi phục hoàn toàn không để lại di chứng.

Triệu chứng của viêm tuyến giáp mủ

Phần lớn các trường hợp diễn biến xảy ra từ từ, song cũng có trường hợp xảy ra cấp tính với hội chứng nhiễm trùng

- Đau vùng tuyến giáp là triệu chứng nổi bật, có thể sờ thấy tuyến giáp lớn, nóng, mềm

- Người bệnh không thể ngửng cổ, thường ngồi cúi đầu để tránh căng gây đau vùng tuyến giáp.

- Nuốt đau.

- Nói khó, khàn tiếng

- Có thể có biểu hiện viêm tổ chức lân cận tuyến giáp, hạch cổ lớn, đau.

- Thân nhiệt tăng.

- Có thể có rét run nếu có nhiễm trùng huyết.

- Khi đã có áp xe, khám vùng tuyến giáp có thể thấy cấc dấu hiệu của khối áp xe như: nóng, đau, đỏ và lùng nhùng.

Triệu chứng lâm sàng ở trẻ em thường rõ hơn ở người lớn: người lớn có thể chỉ thấy khối đau mơ hồ ở vùng cổ, có thể không sốt. 

Viêm tuyến giáp mủ có thể lan xuống ngực gây hoại tử trung thất, viêm màng ngoài tim ở những trường hợp không có lỗ rò pyriform sinus. Bệnh thường xảy ra vào mùa thu, đông theo sau nhiễm trùng đường hô hấp trên. 

Thường không kèm cường giáp hoặc suy giáp, tuy nhiên cá biệt có thể có biểu hiện rối loạn chức năng giáp khi viêm lan rộng, như trong các trường hợp viêm tuyến giáp do nấm, do lao. Viêm có thể gây thương tổn cấu trúc làm phóng thích một lượng hormon gây triệu chứng của nhiễm độc giáp.

Có khoảng 12% nhiễm độc giáp và 17% suy giáp ở viêm tuyến giáp cấp nói chung. Chính tình trạng chức năng giáp không đồng bộ này gây khó khăn cho chẩn đoán phân biệt giữa viêm tuyến giáp cấp và viêm tuyến giáp bán cấp khi cả hai trường hợp đều có đau tuyến giáp. Trường hợp lúc đầu có nhiễm độc giáp sau đó là suy giáp rồi trở về bình giáp sau điều trị đặc thù viêm tuyến giáp, đó thường là bệnh cảnh của viêm tuyến giáp mủ.

Bệnh viêm tuyến giáp mủ thường kéo dài 3-6 tuần. Cũng có trường hợp có diễn biến xấu, một số trường hợp thương tổn tuyến giáp nặng gây suy giáp, do đó trước một viêm giáp nhất là các trường hợp viêm lan tỏa cần theo dõi chức năng tuyến giáp để có thái độ điều trị thích hợp. Phẫu thuật lấy lỗ rò để tránh tái phát.