Một số bà mẹ cảm thấy hài lòng vì đứa con nhỏ của mình tỏ ra “ngoan” hơn các bé khác. Bé ít cử động, ngủ nhiều, dễ tăng cân, lại rất ít khóc và không quấy mẹ. Thật ra, đây có thể là biểu hiện của chứng suy giáp.
Suy giáp ở trẻ em là rối loạn nội tiết do thiếu hoặc do khiếm khuyết tác động của hoóc môn tuyến giáp đưa đến tình trạng chậm phát triển thể chất, tâm thần và vận động ở trẻ. Suy giáp ở trẻ em chủ yếu là bẩm sinh. Nếu không phát hiện và điều trị kịp thời, trẻ sẽ tử vong hoặc lùn và đần độn suốt đời.
Tần suất mắc suy giáp bẩm sinh trên thế giới thay đổi từ 1/3.500 đến 1/4.000. Ở Việt Nam, ước tính hằng năm có khoảng 300 trong số 1,2 triệu trẻ ra đời mắc bệnh này; nhưng tỷ lệ được phát hiện và điều trị chỉ có 8%.
Đa số các trường hợp suy giáp bẩm sinh là do loạn sản tuyến giáp. Số còn lại là do rối loạn tổng hợp hoóc môn tuyến giáp, trong đó có suy giáp do thiếu iod. Vì vậy, việc dùng đủ muối iod ở bà mẹ và trẻ em là rất cần thiết.
Hoóc môn tuyến giáp gồm triiodothyroxin (T3) và thyroxin (T4), được tổng hợp với nguyên liệu chính là iod, có vai trò điều hòa hoạt động nhiều cơ quan, tổ chức trong cơ thể. Với trẻ em, T3, T4 có vai trò: giúp trưởng thành và hoàn thiện hệ thần kinh, đặc biệt tăng dẫn truyền thần kinh và điều hòa giấc ngủ; tăng nhịp tim, tăng thể tích máu, tăng lượng hồng cầu; cốt hóa sụn làm chắc xương, tăng chiều cao, giúp cơ hoạt động tốt; tăng nhu động ruột, tăng tiết dịch tiêu hóa, tăng sự ngon miệng; sinh nhiệt, tạo năng lượng, chuyển hóa tốt các dưỡng chất.
Vào tuần thứ 10 của thời kỳ bào thai, tuyến giáp đã hình thành và bắt đầu phát huy chức năng. Nếu tuyến giáp thai nhi có sự bất toàn (hoặc không tổng hợp được T3, T4, hoóc môn tuyến giáp của mẹ qua nhau thai không đủ, hoặc bị loạn sản tuyến giáp) trẻ sẽ bị suy giáp bẩm sinh. Nên lưu ý, nếu mẹ có bệnh lý tuyến giáp hoặc khẩu phần ăn của mẹ thiếu iod trầm trọng thì sẽ gây thiếu iod cho thai nhi.
Ở trẻ sơ sinh, suy giáp bẩm sinh xuất hiện với các triệu chứng ban đầu như: trẻ thường sinh già tháng (lớn hơn 40 tuần), chiếm khoảng 45% trường hợp; cân nặng lúc sinh lớn hơn 3.500 g (44%); chậm thải phân su và sau này là táo bón kéo dài; vàng da sơ sinh kéo dài (lâu hơn 2 tuần); ngủ rất nhiều, ít khóc, ít cử động, trẻ rất “ngoan”; bú kém, tiếng khóc khàn.
Ở trẻ lớn hơn, nên nghi ngờ bị suy giáp nếu có các triệu chứng: mặt có vẻ “khờ” (còn gọi là thô đặc trưng); chậm phát triển tâm thần, thể chất (chậm biết lật, chậm biết đi, cổ không vững, trẻ ít khóc, ít cười với mẹ, không biết chơi như những trẻ khác cùng tuổi); ăn và bú kém, thân nhiệt thấp, da không mịn, hơi vàng nhẹ; chiều cao phát triển kém; táo bón thường xuyên, lồi rốn.
Nếu nghi ngờ trẻ bị suy giáp, cần đưa đến bác sĩ khám ngay. Chẩn đoán sớm trong 3 tuần đầu đời là yếu tố rất quan trọng, quyết định sự phát triển bình thường của trẻ. Sự can thiệp điều trị sớm sẽ giúp trẻ có được cuộc sống bình thường sau này.
Nếu không điều trị kịp thời, trẻ có thể sẽ bị nhiều biến chứng:
Chậm phát triển trí tuệ không hồi phục: 100% trường hợp trẻ suy giáp bẩm sinh chỉ điều trị khi các triệu chứng đã quá rõ ràng, thường là sau 3 tháng, tình trạng chậm phát triển trí tuệ sẽ không khắc phục được. Biểu hiện của các cơ quan khác có thể phục hồi nhưng hệ thần kinh đã tổn thương của trẻ thì không thể sửa chữa được.
Nhiễm trùng: Trẻ suy giáp bẩm sinh luôn có nguy cơ nhiễm trùng cao hơn do sự phát triển chậm của hệ thống miễn dịch, đặc biệt là dễ nhiễm trùng đường hô hấp.
Xơ vữa động mạch: Trẻ suy giáp bẩm sinh luôn tăng cholesterol máu, đây là nguyên nhân gây ra tình trạng xơ vữa động mạch, bệnh mạch vành sau này ở những trẻ bệnh.
Hôn mê phù niêm: Nếu không can thiệp kịp thời sẽ tử vong.