Bướu Basedow (bệnh bướu cổ lồi mắt hay bướu độc tuyến giáp) là một bệnh nội tiết hay gặp ở Việt Nam, trong đó 80% là nữ giới. Theo thực trạng khám chữa bệnh tại các cơ sở chuyên khoa nội tiết thì bệnh chiếm tới 45,8% các bệnh nội tiết và 2,6% các bệnh nội khoa. Tại Mỹ, tỉ lệ mắc bệnh là 2-4 người trong 10.000 dân, khá cao so với nhiều bệnh lý khác.
Bướu Basedow gây nhiều biến chứng nguy hiểm
Bướu Basedow là một bệnh lý tuyến giáp do quá trình tăng năng sản xuất hormon tuyến, đây là một dạng bệnh lý trong hội chứng cường giáp. Hàm lượng hormon ở tuyến giáp cao gây ra những tổn hại về mô và chuyển hoá. Bệnh thường gặp ở mọi lứa tuổi, song phần lớn là ở độ tuổi lao động, nữ giới hay mắc hơn nam giới đến 4-5 lần.
Bướu Basedow- Nguy hiểm nếu không được điều trị
Bệnh nhân bị bướu Basedow thường gặp các triệu chứng như: bướu cổ, rối loạn tim mạch (hồi hộp, đánh trống ngực, nhịp tim nhanh), thân nhiệt tăng (da nóng ẩm) và đặc biệt là lồi mắt Basedow, nếu không được điều trị có thể dẫn đến mất thị lực vĩnh viễn,... Bên cạnh đó, bướu Basedow còn ảnh hưởng tới chức năng sinh dục của cả nam và nữ. Phụ nữ dễ lãnh cảm, rối loạn kinh nguyệt, thiểu kinh, vô kinh; ở nam giới là tình trạng giảm ham muốn tình dục, liệt dương, vú to. Bệnh diễn biến thành từng đợt cấp nối tiếp nhau, khiến người bệnh bị suy kiệt sức khoẻ.
Bệnh nhân bướu Basedow có thể tử vong nếu không được chữa trị
Bướu Basedow nếu không được điều trị hoặc điều trị không hiệu quả, bệnh nhân có thể tử vong vì: Suy kiệt; gặp các biến chứng về tim mạch như suy tim, rối loạn nhịp tim...; cơn bão giáp, trong tình trạng này bệnh nhân sốt cao có khi đến 40-41 độ C, rối loạn tâm thần có thể gây kích động, mê sảng, tim đập rất nhanh có khi lên đến trên 150 lần một phút.
Quá trình điều trị Basedow khá phức tạp và đòi hỏi người bệnh phải kiên trì. Thông thường bệnh tiến triển từ từ khiến người bệnh chủ quan, lơ là trong điều trị. Nhưng nếu để lâu dài sẽ dấn đến xuất hiện các biến chứng nặng nề, khi đó người bệnh sẽ bị đe dọa về sức khỏe và tính mạng. Thực tế, rất nhiều bệnh nhân đi khám khi bệnh đã có biến chứng và việc điều trị bệnh lúc này cần kết hợp với điều trị biến chứng.