Bướu cổ đơn thuần là một bệnh lý tuyến giáp hay gặp, nhất là ở những nơi điều kiện kinh tế kém phát triển. Nguyên nhân gây bướu cổ đơn thuần là do thiếu iod. Vậy các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bướu cổ đơn thuần là gì? Có cách nào để phòng tránh và điều trị bệnh lý này không?

Các yếu tố nguy cơ của bướu cổ đơn thuần là gì?

Tuyến giáp nằm ở phía trước cổ, có vai trò sản xuất hormone T3 (triiodothyronine), T4 (tetraiodothyronine), điều hòa các quá trình chuyển hóa trong cơ thể. Bướu cổ đơn thuần là tình trạng tuyến giáp tăng về thể tích, lan tỏa hay khu trú, không kèm theo dấu hiệu tăng hay giảm chức năng tuyến giáp, không viêm cấp, bán cấp, mạn tính hoặc ác tính. Nguyên nhân cơ bản gây bướu cổ đơn thuần là do thiếu iod. Hàng ngày, cơ thể cần 150 - 200 mcg iod được cung cấp từ thức ăn, nước uống,... Nếu sống ở vùng thiếu iod, nước uống, các loại động thực vật ở đó cũng thiếu iod, hậu quả là cơ thể không được cung cấp đủ lượng iod cần thiết.

Dưới đây là một số yếu tố nguy cơ của bướu cổ đơn thuần:

- Một số chất hòa tan trong nước: Trong nước ở một số vùng núi thường có nhiều canxi, magie, fluor,... làm cho nước có độ cứng cao, làm ảnh hưởng đến sự tổng hợp hormone tuyến giáp và có thể gây ra bướu cổ đơn thuần.

- Các thuốc thiocyanate, thionamid, cobalt,... có thể gây ức chế tập trung iod và ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp hormone tuyến giáp.

- Di truyền: Một số trường hợp có tính chất gia đình, thường do rối loạn tổng hợp hormone tuyến giáp bẩm sinh. Bướu cổ thường kèm theo câm điếc, gọi là hội chứng Pendred do rối loạn hữu cơ hóa iod.

 - Bệnh mạn tính: Các bệnh viêm đại tràng mạn, tiêu chảy mạn, bệnh thận mạn tính,... gây rối loạn hấp thu và thải trừ iod. Người mắc một trong các bệnh lý này sẽ có nguy cơ cao bị bướu cổ đơn thuần.

- Tuổi: Trẻ em dễ bị bướu cổ hơn người lớn.

- Giới tính: Bướu cổ thường gặp ở nữ, nhất là ở tuổi dậy thì, khi có kinh, trong thời gian cho con bú vì lúc đó, nhu cầu hormone tuyến giáp tăng và nồng độ estrogen trong máu tăng mạnh sẽ ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa hormone tuyến giáp.

- Điều kiện sinh hoạt: Nhà ở quá chật, thiếu vệ sinh, ăn uống thiếu thốn cũng là nguyên nhân thiếu iod và gây bướu cổ đơn thuần.

Triệu chứng và cách điều trị bệnh bướu cổ đơn thuần

Tùy theo bướu cổ đơn thuần to hay nhỏ mà các triệu chứng lâm sàng sẽ khác nhau. Bướu cổ to nhiều sẽ nhìn thấy ngay ở trước cổ; nếu to vừa cổ hơi đầy. Bướu cổ nhỏ hơn khó nhìn thấy ở tư thế bình thường nhưng khi ngửa cổ có thể nhìn thấy. Khi nuốt sẽ thấy bướu cổ di động theo nhịp nuốt. Bướu cổ đơn thuần thường thể tích to vừa, đồng đều, mềm, nhẵn. Đôi khi, độ to của bướu thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt. Một số trường hợp thấy các biểu hiện thần kinh nhạy cảm: Hồi hộp đánh trống ngực, nhịp tim nhanh,... dễ nhầm với cường giáp trạng. Trường hợp bướu cổ quá to có thể gây chèn ép vào thực quản, khí quản gây khó nuốt, khó thở.

Bướu cổ đơn thuần ở trẻ em có thể tự khỏi, đôi khi gây một số biến chứng chèn ép vào khí quản, thực quản, giảm trí tuệ, chậm phát triển thể chất, cường giáp.

Bệnh có thể điều trị nội khoa bằng cách dùng hormone giáp trạng theo chỉ định, đa số trường hợp diễn biến tốt. Phẫu thuật được chỉ định khi điều trị nội khoa lâu ngày không đỡ và trở thành bướu nhân. Bướu nhiều nhân quá to sẽ gây chèn ép làm khó nuốt, bướu lạc chỗ hoặc bướu có xu hướng ác tính.

Tuy nhiên, chúng ta có thể phòng bệnh bướu cổ đơn thuần bằng cách:

- Ăn các thức ăn giàu iod như cá, mắm tôm, nước mắm, hải sản...

- Dùng nước sạch, cải thiện điều kiện nhà ở.

- Chữa trị kịp thời các bệnh về tiêu hóa, dùng thuốc hợp lý...

- Dùng muối iod là phương pháp phòng bệnh rất tốt. Ngoài ra, có thể dùng các loại dầu iod đường tiêm hoặc đường uống (lipiodol) theo chỉ định của bác sĩ để phòng ngừa bướu cổ đơn thuần.